TMT: Hưởng ứng lời mời viết bài cho Hội thảo khoa học TÌM LẠI CỘI NGUỒN KINH DỊCH do Trung tâm Minh triết và Trung tâm nghiên cứu Lý học phương Đông phối hợp tổ chức, nhà nghiên cứu Viên Như – người luôn khẳng định “Người Việt là chủ nhân của Dịch học và Chữ vuông” đã gửi tới Ban biên tập bài viết “Hồ Hoàn Kiếm – Dịch học – Chữ vuông và Truyền thuyết”, xin cảm ơn tác giả và trân trọng giới thiệu cùng quý vị.
Để tiện theo dõi, chúng tôi chia bài viết công phu này ra làm 3 phần:
2. Giải mã
......
4. Sự tương thích Tháp Bút – Đài Nghiên với hình ảnh
trên trống đồng Ngọc Lũ
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjPWoer31APQfE5QElAdEbd6u80NnrHcH4ip6JGPJygOk5PN71rQrx4pcJGcwjehIk1S1cEo_dk3aeP3YrFUzBHaEZbs6cby6RvmFB9VwhSmdsj1eFyjStq0F4diwhNtqPp_1o2nEVYUGk/s1600/TemKyniem.jpg)
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4vTDOt2yqWtSIAed6oTp1PZKEQW596FWrYwdhEAL2Dp7S26gfGvVF9nZ23HTjl9yrgLlrJHe0N_Gs16XT7WCMnDFKiM3jQOPlsmigWLsbFv4aHIPem69SF3629T2PNUhT88yO45S9inY/s320/SinhThucNam.jpg)
Mặt trống đồng diễn
tả các khái niệm của Vô cực – Hà Đồ , cụ thể là hầu hết các hình ảnh chính yếu
trên mặt trống đều ngược với kim đồng hồ. Thái cực là một tiến trình ngược lại
với Vô cực, do đó ta cần phải làm ngược các hình ảnh đó theo nguyên tắc Âm
thành Dương và Dương thành Âm, hay Phải sang Trái, trên xuống dưới, từ đó ta có
hình ảnh của Thái cực trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Xem hình minh họa trang sau.
5. Tại sao ba con cóc đội cái nghiên?
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjy54OPO3UIv0vZ2tlSbclECx2Lrzhkj_2t7VAwwgVci4sZiu0USoh3nCN31JI_3qPdG_ciQBcKpYW-J6uv5UgM-B5paOECfPyPfkF5YHuZ0tFjVqd5QWRgdsY7SBXtxFv4ZnWr67AwG8g/s320/Cocnhai.jpg)
So sánh với hình ảnh
trên trống đồng Ngọc Lũ ta thấy Nhái ở trên, trước mặt là quẻ Thái, dưới là người
phụ nữ đội sinh thực nam hay Cóc.
III. Sơ đồ các cụm công trình đã nói trên đối chiếu
với Hà Đồ - Lạc Thư trên mặt trống đồng
Ngọc Lũ.
1.Ta thấy hai cửa
tháp rùa thể hiện theo truyền thuyết là con rùa và thanh kiếm, nói khác hơn là
trục Hoàng – Đông Tây. Thiếu Dương, Thiếu Âm.
2. Cầu Thê Húc đóng vai trò trục Tung – Bắc Nam.
3. Đài Nghiên hướng chánh bắc – Cực Âm. Trên trống đồng
Ngọc Lũ là Con Nhái. Xem hình minh họa.
4. Ở giữa là lá phướng nói rằng vũ trụ đã chuyển sang
Thái Cực, hình trong ảnh minh họa trên Âm, dưới Dương, tức quẻ Thái.
5. Tháp Bút tương ứng với người đàn bà đội sinh thực nam.
Tất cả so sánh
trên nói lên một điều rằng Nho sĩ Nguyễn Văn Siêu xây dựng cụm công trình Đài
Nghiên – Tháp Bút với những khái niệm dịch học của riêng Lạc Việt, dù có thể
chưa biết trống đồng Ngọc Lũ, nhưng những gì cụ Siêu hiểu và thể hiện hoàn toàn
tương thích với khái niệm dịch lý trên trống đồng Ngọc Lũ. Tại sao vậy? Câu trả
lời duy nhất đó là vì họ là người Lạc Việt, Dịch học và chữ Vuông là của người
Lạc Việt, đó là tài sản của dân tộc họ thì ngàn xưa cũng thế mà ngày nay cũng
thế mà thôi, dù có thể hiện dịch lý trên hình thức nào thì phương hướng và các
con vật tượng cho lý tính của các hướng theo dịch học vẫn không bao giờ thay đổi.
IV. Nghĩa bài minh trên nghiên
穴 地𠈨 (直)硯
註 道 德 經
斫 大 方 硯
著 漢 春 秋
石 斯 硯 也,
匪 象 何 形.
不方 不 員,
妙 存 諸 用.
不 高 不 下,
位 乎 厥 中.
俯 還 劍 水,
仰 石 筆 峰.
應 上 台而 吐 雲 物,
含 元 氣 而 磨 虛 空.
Cổ hữu:
Cổ hữu:
Huyệt địa tác (trực) nghiễn,
Chú Đạo đức kinh.
Chước đại phương nghiễn,
Trước Hán Xuân thu.
Thạch
tư nghiễn dã,
Phỉ
tượng hà hình.
Bất
phương bất viên,
Diệu tồn chư dụng.
Bất cao bất hạ,
Vị hồ quyết trung.
Phủ Hoàn Kiếm thuỷ,
Ngưỡng thạch bút phong.
Ứng thượng Thai nhi thổ vân vật,
Hàm nguyên khí nhi ma hư không
1. Tạm dịch:
Xưa có:
Moi đất làm nghiễn,
Ghi Đạo Đức kinh.
Đẽo nghiễn vuông lớn,
Viết sử nhà Hán.
Tách
đá làm nghiên,
Chẳng giống hình gì.
Không vuông, không tròn,
Chứa bao diệu dụng.
Chẳng cao chẳng thấp,
Thế nằm ở giữa.
Cúi trông hồ nước,
Ngước
thấy bút sơn.
Ứng tính dương sinh ra muôn vật,
Ngậm nguyên khí lớn cùng đất trời.
Bài Minh này trước giờ đã có nhiều người dịch, bên
cạnh đó, cho dù bài minh này được khắc trên đá (nghiễn), người ta vẫn thay đổi
một vài chữ, thậm chí thay đổi vị trí của các câu. Tất nhiên việc ấy cũng làm
thay đổi nội dung bài minh, nhưng không thấy giải thích vì sao phải thay đổi
như vậy.
Như đã tạm dịch bài minh này ở trên, tôi cũng có
thay đổi, cụ thể là câu đầu, trước giờ ai cũng cho câu ấy là “Huyệt địa trực
nghiễn -穴 地直硯” . Tuy nhiên, căn cứ hình ảnh chụp lại, tôi
cho rằng chữ đó là chữ tác 𠈨 , như vậy câu ấy là “Huyệt
địa tác nghiễn -穴地𠈨 硯” tuy có thay đổi nhưng hầu như chẳng thay đổi
gì cách hiểu câu này. Bây giờ xin trình bày cách hiểu bài này, trước hết xin
lưu ý rằng chữ Sơn 山– Bút – Nghiễn硯 tôi đã phân tích ở trên, có nghĩa là Bút và
Nghiễn là một cặp bất khả phân ly, trong dịch thì là âm dương, trong cuộc đời
thì nam – nữ, do đó trong phần này miễn lập lại thêm rườm rà.
Để viết bài minh này, chắc chắn
Phương Đình – Nguyễn Văn Siêu phải suy nghĩ rất nhiều, bởi vì để diễn tả một
khái niệm vừa hư (dịch) vừa thực (phồn thực) trong cùng một lúc quả hết sức khó
khăn, thêm vào đó, có lẽ cụ phải tránh việc bị chống phá bởi những người không
đồng tình, nên phải tính toán cách dùng từ sao cho thật đắt.
Trong bài này, theo tôi có 2
cái nghiên.
1. Tạm gọi là cái nghiên đất.
Moi đất làm cái nghiên. Cái nghiên này bắt đầu từ ‘Cổ hữu” và bốn câu tiếp
theo. Cái nghiên này hình vuông.
2. Cái nghiên bằng đá. Bắt đầu
từ câu “Thạch tư nghiễn dã” tới câu “Ngưỡng thạch bút phong”. Cái nghiên này
không thuộc hình thù gì, ý là không thuộc vuông hay tròn.
Hai đoạn trên tổng cộng 50 chữ,
tượng trưng cho lý số của Bản thể - Âm, tức Hà Đồ . (6-1=5. 7-2=5.8-3=5.9-4=5)
nó cũng như Âu Cơ và Lạc Long Quân mỗi người dắt 50 con ra đi vậy.
Hai câu cuối 14 chữ, tượng
trưng cho 14 khái niệm căn bản của dịch học. 2 nghi+4 tượng+8 quái = 14.
Tổng cộng là 64 chữ, 64 là
8.8, tức là 64 quẻ, con số nói lên mọi biến dịch của vũ trụ.
2. Phân tích bài minh
古 有 - Cổ hữu – Xưa có.
Xưa có, nghĩa là chuyện ấy,
cái ấy đã có từ ngàn xưa, hay cái ấy là hiển nhiên, chẳng cần phải tìm nguồn gốc
làm gì nữa, nó như bắt đầu chuyện cổ tích.
穴地作硯 - Huyệt địa tác nghiễn – Moi đất làm nghiên.
Như đã nói trên, Nghiên-Bút cũng như Chày-Cối là cặp bất
khả phân ly, trong buổi bình minh của nền văn minh dịch học, khái niệm âm dương
được diễn tả qua hình ảnh của Chày-Cối rất phổ biến, ta thấy điều này trên trống
đồng. Câu “Huyệt địa tác Nghiễn” nói đến khái niệm ban đầu của cái cối, chữ Nho
là Cữu 臼. TVGT: 古者掘地爲臼 – Cổ giả quật địa vi cữu – Người xưa đào đất làm cối. Như vậy cái
nghiễn đầu tiên bằng đất chính là cái cối vậy.
註 道 德 經 - Chú Đạo Đức
Kinh – Ghi kinh Đạo Đức.
Theo tôi, sở dĩ Phương Đình -
Nguyễn Văn Siêu sử dụng kinh Đạo Đức vào đây vì câu đầu tiên của cuốn kinh này,
“Đạo khả đạo phi thường đạo”. Vì ngay đầu bài, cụ nói “xưa có” tất là cái ấy nó
không nằm trong phạm trù nhị nguyên, nên đừng mất công tìm kiếm nó từ đâu mà
có, cũng như Đạo mà có thể nói ra được thì cái Đạo ấy đâu phải là cái thường hằng.
Nói khác hơn, Đạo vượt ra ngoài khái niệm nhị nguyên. Cụ muốn dùng Đạo Đức Kinh
để giải thích cái Nghiễn. Ở đây ta cần phải hiểu về nguyên tắc của Dịch. Theo Dịch,
bản thể thuộc Âm, tức là cái nghiên, mà bản thể là Đạo vậy, “Nhất âm nhất dương
chi vị đạo - Đạo là âm dương nhất thể vậy”.
斫 大 方 硯 – Chước đại phương nghiễn. Đẽo (cái) nghiễn vuông lớn.
Nghiễn thuộc âm, theo Dịch thì âm được biểu tưởng bằng
hình vuông. Tuy nhiên vì cái nghiễn này không phải là “Nghiễn khả nghiễn” nên
nó “Đại” vô cùng to lớn. Thiên đại – Địa đại – Nhân đại.
著 漢 春 秋 – Trước Hán xuân thu – Viết sử nhà Hán.
Về
cách dịch từ ghép “Xuân thu” tôi thấy cách hiểu của Tuấn
Nghi – Tảo Trang[1]hết sức thỏa đáng. Trong trường hợp này dịch hai từ đó là “sử” là phù hợp
với câu “Chú Đạo Đức Kinh”. Vì sao cụ Siêu lại cho rằng nghiên ấy viết cả sử
nhà Hán. Sao sử nhà Hán mà không phải nhà nào khác? Như đã nói trên, nghiên này
có từ ngàn xưa, xưa hơn tất cả các triều đại, nói chi nhà Hán, thế mà ở đây cụ
dùng nhà Hán. Theo tôi cụ muốn nhấn mạnh rằng cái mà ta cứ nói văn hóa Hán, chữ
Hán ấy thực ra đều do nghiên này viết ra cả, hay nói khác là nó được người người
Lạc Việt dạy cho cả chứ làm gì của họ mà hãnh diện. Có nghĩa là chữ nghĩa đã có
từ xưa, từ khi Lưu Bang chưa sinh, nên nghiễn mới “Trước Hán xuân thu”. Nếu
không có chữ trước đó nhà Hán lấy gì viết sử, thế mà cứ bảo chữ Hán mới lạ.
Trên đây là bốn câu đầu của
bài minh. Theo tôi đây là đoạn nói lên nguồn gốc của cái nghiên “Huyệt địa”. Tức
cái nghiên vuông đất. Giờ tới nghiên đá.
石 斯 硯 也 – Thạch tư nghiễn dã – Tách đá
làm nghiên.
Chỗ này cụ dùng cách chiết tự,
tức là chữ Thạch 石 được tách ra làm hai gồm: Hán 丆, Khẩu 口, Chữ Khẩu chính là cái nghiên.
Nói khác hơn nghiên chính là quái Khôn. Muốn hiểu chổ này cần phải xem chữ Nham
ở trên[2], chữ Thạch là phần dưới của
Hà Đồ - Âm. Cái nghiên này trước đây là
cái hang của con cá tinh trong truyền thuyết Ngư tinh.
匪 象 何 形 - Phỉ tượng hà hình – Chẳng giống hình gì.
Như
đã nói trên, nghiễn là đạo hay ta thường gọi là tạo hóa hay vũ trụ. Ai mà biết
vũ trụ hình gì! Có nghĩa là nói về cái tướng của nghiên.
不方 不 員 – Bất phương bất viên - Không vuông, không tròn.
Hai khái niệm mà người ta thường dùng cho sự hoàn hảo của mọi việc đó
vuông tròn, vuông tròn còn chỉ ra hai mặt của cuộc đời, Âm-Dương, cái làm nên mọi
sắc thái của hiện tượng, thế mà nghiên này vượt ra cả hai khái niệm ấy. Như vậy
đích thị nghiên là Bản thể - Đạo hay Chân như rồi. Để thể hiện điều này trên thực
tế, cụ đã làm cái nghiên đá hình nửa trái đào. Tất nhiên đào cũng biểu tượng
cho âm, vì vậy mà ta thường nói “phận má đào -桃腮 Đào tai ” tức là phận con gái. Do đó ta biết rằng cái nghiên này
thể hiện khái niệm Vô cực trong dịch học.
妙 存 諸 用 – Diệu tồn chư dụng – Khéo chứa diệu dụng.
Vì Đạo hay Bản
thể - Chân như nên tuy không mà có, theo cách nói của nhà Phật là chân không diệu
hữu. Dụng là cái hoạt động, tức là các sinh thể, bản thể là nơi tồn chứa các hạt
giống của các sinh thể nhưng chưa sinh khởi thì chưa có sự khác biệt, chỉ khi
nó được sinh ra mới có sự sai khác, như người đàn bà ngậm nguyên khí tương tác
với môi sinh 9 tháng mà sinh ra con, có thể sinh con trai, con gái, sinh một
hay hai thậm chí ba bốn, đó là chuyện con người, còn vũ trụ thì muôn màu muôn vẻ,
cái này gọi là diệu dụng. Vì công năng của nó to lớn như vậy nên nó có mặt khắp
nơi, nhưng khó mà nói nó ở một phương vị nào, nên nói.
不 高 不 下 – Bất cao bất hạ, Chẳng cao chẳng thấp
Nhưng đã dùng ngôn ngữ thì phải xác định, cho dù
xác định dùng để phủ định. Cụ Siêu nói nghiên ấy ở giữa.
位 乎 厥 中 – Vị hồ quyết
trung – Thế nằm ở giữa.
Trung ở đây là giữa, chữ trung
này cần phải hiểu theo luận Trung quán của nhà Phật, Trung đây là ly tứ cú, tuyệt bách phi, có nghĩa là
rời xa mọi đối đãi. Đấy là nói về triết lý, tuy nhiên cái nghiên là quái khôn của
con người quả là nằm ở lưng chừng thật, mà căn cứ vào thực tế thì cũng đúng như
lời minh diễn tả. Cái nghiên nằm trên đài, chẳng cao lắm, vì người ta có thể
leo lên được, mà cũng chẳng thấp lắm vì người ta vẫn có thể đi ra đi vào. Với
cái vị trí ấy nên nghiên mới nhìn xuống hồ như cụ diễn tả được chứ.
俯 還 劍 水 – Phủ Hoàn Kiếm thủy - Cúi
trông hồ nước,
Câu này cụ Siêu nói thế cho nhẹ đi cái văn phong của bài
viết, chứ nghiên ở đó chỉ cốt trông về núi tháp bút mà thôi.
仰 石 筆 峰 – Ngưỡng thạch bút phong – Ngước thấy bút sơn.
Ngước lên thì thấy tháp bút sừng
sửng đứng đó cũng “cổ hữu” ngàn xưa như nghiên đó thôi, núi đứng nhìn nghiên
như chừng muốn nói điều gì đó. Tất nhiên nghiên biết điều đó, cái mà cụ Siêu gọi
là “ứng - 應”.
應 上 台而 吐 雲 物
Ứng thượng Thai nhi thổ
vân vật.
Ứng dương tính mà sinh muôn vật,
Ứng là đáp lại, ủng hộ, tiếp ứng, nghiên đã “ứng thượng
thai” thượng là trên - dương, Thai là sao Thai[3], còn gọi là sao Tam Thai 三台, vì vậy mà chữ Thai 台 còn có dị thể là 㣍, theo tôi có thể nó còn
có một dị thể nữa mà sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận không cho âm
và đề nghị ai biết xin bổ sung, đó là 𢁘 - 𢁚,
chữ này một bên là Cân – Con nhái (theo tôi) – Âm, một bên là Tam – Càn – Cóc –
Dương, bộ Sam 彡 Sam cũng như Tam 三 , thay cho quái Càn, sách thiên văn nói sao ấy như ngôi Tam Công 三公. Tam Công
là cái chức trời ban cho ông Táo khi về trời. Kỳ thực đó là lúc Khảm Ly hóa Càn
Khôn, có nghĩa là Càn lại là Càn, Khôn lại là Khôn, nên Tam Công chính là quái
Càn vậy. Theo diễn tả của câu văn, sao Thai ở trên Nghiên, trong thực tế cũng
thế, nghiên thì ở dưới, chổ giữa cái đài, còn tháp với đầu bút cao vút như đâm
thủng trời xanh. Khôn mà ứng với Càn thì sinh ra muôn vật, trong bài là “Thổ
vân vật- 吐 雲 物” .
TVGT:
Vân 雲 .古文省雨. 古多叚云爲曰 – Cổ văn tỉnh vũ. Cổ đa giả vân vi viết – Văn xưa bỏ chữ 雨, Xưa phần nhiều dùng 云 là 曰.
Viết-quái Khảm, là cái nghiễn khi còn ấu
thơ, về sau lấy chồng thì thành quái Khôn khi Khảm Ly hóa Càn Khôn, từ đó Khôn
là mẹ nên sinh ra vạn hữu. Khôn tuy thuộc âm, có chức
năng sinh ra vạn hữu, nhưng nếu không có Càn thì cũng đành chịu mà thôi, vì nếu
không như vậy thì lấy nguyên khí ở đâu mà tồn tại mãi đó với tạo hóa, ở đây cụ
Siêu dùng chữ “ma hư không”.
含 元 氣 而 磨 虛 空 - Ngậm nguyên
khí mà lớn cùng trời đất.
Nguyên khí vốn không có hình hài nhưng nó là căn nguyên
sinh khởi của muôn loài, muôn vật, nói như thế có nghĩa là nguyên khí thuộc
dương, tuy nhiên không có gì có thể sinh khởi mà không hội đủ âm dương, do đó
nguyên khí phải được nuôi dưỡng trong môi trường âm mới dần thành hình hài, ở
đây là cái nghiên, vì vậy cụ Siêu dùng từ “Hàm” hàm là ngậm, chứa. Cái nghiên
này ngậm nguyên khí mà sinh thành muôn vật, cái nghiên đất thì sinh ra vũ trụ,
cái nghiên đá thì sinh con người. Tất nhiên chẳng phải mọi thứ sinh thành hoàn
hảo trong chốc lát mà nó cần có môi trường, sự phát triển đó cứ hoàn thiện dần
theo thời gian, cụ Siêu dùng từ “ma” ma là mài, cọ xát, tương tác, ở đây là
tương tác với mọi yếu tố của trời đất, vì vậy mới nói “hư không”. Điều này cho
thấy hư không không có nghĩa là không khí thôi mà là tất cả hiện hữu. Tất cả
chúng ta từ tiến trình này mà có mặt nên cái nghiên được đặt trên cái đài
(thai) nơi mà mọi người, không phân biệt giới tính, chức vụ đều ra vào như đã
nói phần trên.
Với những gì thể hiện qua bài minh cho thấy rằng ngày ấy
Phương Đình – Nguyễn Văn Siêu hiểu rất rõ nguồn gốc dịch học và chữ Vuông, tất
cả không ngoài bản thể của vũ trụ với hai yếu tố âm dương. Cách mà Nguyễn Văn
Siêu trình bày trong bố cục của bài minh đã nói lên sự hiểu biết một cách hệ thống,
từ buổi ban sơ, cái nghiên của vũ trụ đã sinh ra muôn loài, muôn vật, cho đến
cái nghiên bằng đá, tức là lúc hình thành chữ viết, được cụ thể hóa bằng khái
niệm Bút và Nghiên hay Cóc và Ếch, hai khái niệm về sau gọi là khoa đẩu. Có chữ
mới có sự kế thừa tri thức làm nên nền giáo dục thông qua việc học hành. Vì thế
cho nên trong bức tranh Thày đồ Cóc tiền nhân nước Việt mới viết “Thấy học xem
bằng ếch thấy hoa”.
Đặc biệt những gì được thể hiện ở hồ Hoàn Kiếm, từ truyền
thuyết đến các công trình xây dựng, dưới hồ hay trên bờ, về mặt dịch học cũng
như con chữ đều hoàn toàn tương thích với những gì mà Tổ tiên nước Việt ghi lại
trên trong đồng Ngọc Lũ cách đó hơn 2000 năm. Làm sao có điều kỳ lạ đó, làm sao
trả lời về sự trùng hợp này. Câu trả lời duy nhất là bởi vì họ là dân Lạc Việt,
Dịch và chữ Vuông là của dân Lạc Việt, vì vậy các khái niệm ấy chỉ có một mà
thôi, cho dù cách nhau 2 hay 5 ngàn năm chăng nữa thì cách hiểu cũng thế mà
thôi. Đặc biệt, những điều này Trung Hoa hoàn toàn không hề hay biết, cho dù họ
tuyên bố với thế giới rằng Dịch là của họ, chữ Vuông là của họ, thế mà họ không
hề biết tại sao chữ Thạch石viết
với bộ Hán丆và chữ Khẩu口, chữ Hạch核lại viết với chữ Mộc木 và Hợi亥,
hay chữ Nghiễn硯với chữ Thạch 石và Kiến見, thế mà người Việt biết rất rõ. Vậy ai là chủ nhân của Dịch
học và chữ Vuông?
Giữa thủ đô, người xưa đã ban tặng cho một báu vật văn
hóa vô giá như vậy, thế mà hầu như ngày nay chẳng còn mấy ai quan tâm, thậm chí
phần lớn người Hà Nội đến Hồ Hoàn Kiếm chẳng biết nơi ấy có cái đài, trên ấy có
cái nghiên, gọi là “Đài Nghiên” hay ‘Nghiễn Đài”. Thật buồn cho một sĩ phu Bắc
Hà như cụ Phương Đình – Nguyễn văn Siêu. Thôi xin cụ cứ an nghĩ, cuộc đời vốn
vô tâm nên nghĩ ra chuyện ấy âu cũng là chuyện bình thường của sự thịnh suy vậy.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMhyphenhyphenfCQccyi6Tz7wQ6zA-wd9z5QM8MU_Rwsviphq4d_lTJxNcj1WdvdaNNOv4lYCgL_SgxtTyenHpqZVBsQKvtfZPtujP_kxfXGALMLaEukNLLUpD1cUfkl4_pIRLszjBv3KzobMRKLF4/s400/TrongTron.jpg)
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMhyphenhyphenfCQccyi6Tz7wQ6zA-wd9z5QM8MU_Rwsviphq4d_lTJxNcj1WdvdaNNOv4lYCgL_SgxtTyenHpqZVBsQKvtfZPtujP_kxfXGALMLaEukNLLUpD1cUfkl4_pIRLszjBv3KzobMRKLF4/s400/TrongTron.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét